Thứ Hai, 14 tháng 4, 2014

học tiếng nhật cơ bản tại hà nội

Học tiếng nhật cơ bản

Nhật Bản không chỉ là nền kinh tế lớn thứ 3 Thế giới mà còn là một trong những đất nước có nền văn minh và bề dày lịch sử văn hóa lâu đời nhất trên Thế giới. Song song với sự phát triển bùng nổ của Nhật Bản từ nửa sau của thế kỷ 20, tiếng Nhật đã dần dần được ưa chuộng và vươn ra ngoài biên giới, trở thành một ngôn ngữ phổ biến trong giao tiếp Quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh, Công nghệ. Hiện nay trên thế giới có khoảng 122 triệu người đang sử dụng tiếng Nhật hàng ngày.



Người Nhật có lòng tự hào dân tộc rất cao. Họ đặc biệt coi trọng và đánh giá cao nhân viên, học sinh và người nước ngoài hiểu biết về ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản. Chính vì thế ngày nay việc học tiếng Nhật không chỉ là học thêm một ngoại ngữ mà còn giúp người học có thể tiếp cận với nhiều cơ hội về học bổng, du học Nhật Bản, công việc cho các Tập đoàn, Công ty, Tổ chức Nhật Bản.


Trung tâm tiếng nhật SOFL đang tổ chức khóa học tiếng nhật cơ bản dành cho những người chưa biết gì về tiếng nhật và muốn tìm hiểu về tiếng nhật với giáo viên bản ngữ giàu kinh nghiệm và những phương pháp học hiện đại chuyên đào tạo cho sinh viên có ý muốn đi du học hoặc xuất khẩu lao động. Ngoài ra trung tâm còn mở lớp dành cho các học viên tự do học với ý muốn làm việc với mức lương cao tại Việt Nam.

Học tiếng Nhật Bản thực sự không khó. Trong trí tưởng tượng của chúng ta, chữ tượng hình chắc học sẽ khó lắm. Xin thưa, khó mấy thì cách học sau đây của tôi sẽ giúp bạn thấy việc học tiếng Nhật bản thật dễ ợt.

Trung Tâm Nhật Ngữ SOFL chúc mọi người học tập vui vẻ.


Thứ Sáu, 11 tháng 4, 2014

Học tiếng nhật cơ bản tại hà nội

Học tiếng nhật cơ bản

Nhật Bản không chỉ là nền kinh tế lớn thứ 3 Thế giới mà còn là một trong những đất nước có nền văn minh và bề dày lịch sử văn hóa lâu đời nhất trên Thế giới. Song song với sự phát triển bùng nổ của Nhật Bản từ nửa sau của thế kỷ 20, tiếng Nhật đã dần dần được ưa chuộng và vươn ra ngoài biên giới, trở thành một ngôn ngữ phổ biến trong giao tiếp Quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh, Công nghệ. Hiện nay trên thế giới có khoảng 122 triệu người đang sử dụng tiếng Nhật hàng ngày.



Người Nhật có lòng tự hào dân tộc rất cao. Họ đặc biệt coi trọng và đánh giá cao nhân viên, học sinh và người nước ngoài hiểu biết về ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản. Chính vì thế ngày nay việc học tiếng Nhật không chỉ là học thêm một ngoại ngữ mà còn giúp người học có thể tiếp cận với nhiều cơ hội về học bổng, du học Nhật Bản, công việc cho các Tập đoàn, Công ty, Tổ chức Nhật Bản.


Trung tâm tiếng nhật SOFL đang tổ chức khóa học tiếng nhật cơ bản dành cho những người chưa biết gì về tiếng nhật và muốn tìm hiểu về tiếng nhật với giáo viên bản ngữ giàu kinh nghiệm và những phương pháp học hiện đại chuyên đào tạo cho sinh viên có ý muốn đi du học hoặc xuất khẩu lao động. Ngoài ra trung tâm còn mở lớp dành cho các học viên tự do học với ý muốn làm việc với mức lương cao tại Việt Nam.

Học tiếng Nhật Bản thực sự không khó. Trong trí tưởng tượng của chúng ta, chữ tượng hình chắc học sẽ khó lắm. Xin thưa, khó mấy thì cách học sau đây của tôi sẽ giúp bạn thấy việc học tiếng Nhật bản thật dễ ợt.

Trung Tâm Nhật Ngữ SOFL chúc mọi người học tập vui vẻ.


Thứ Sáu, 4 tháng 4, 2014

Đặc điểm văn hoá Nhật Bản

Đặc điểm văn hoá Nhật Bản
Đặc điểm văn hoá Nhật Bản
Nhật Bản là một dân tộc có hàng ngàn năm lịch sử.
1. Một nền văn hóa giàu bản sắc dân tộc
 
Nền văn hóa Nhật Bản từ truyền thống đến hiện đại là một nguồn mạch dồi dào giàu bản sắc, nhất quán trong đặc điểm dân tộc và tính thời đại. Có nhiều cách giải thích khác nhau về bản sắc dân tộc của văn hóa Nhật. Có người cho rằng, do quần đảo Nhật Bản ở xa khơi, đất nước Nhật chưa hề bị một đạo quân xâm lược nào chiếm đóng, kể từ trước 1945. Những điều kiện tự nhiên và xã hội đó dễ tạo cho dân tộc phát triển thuần nhất, phẩm chất của dân tộc thấm sâu và tạo thành truyền thống lâu bền, phong tục tập quán thành nếp sống bền vững, sở thích trong cuộc sống trở thành thị hiếu thẩm mỹ. Lại có ý kiến cho rằng, chính điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và thơ mộng là một thử thách lớn lao và nguồn nuôi dưỡng vô tận cho sức sống của dân tộc Nhật Bản. Đất trồng trọt nghèo nàn chiếm 13% diện tích, còn lại là rừng núi hiểm trở hoang dại. Dân tộc Nhật Bản phải tiến hành cuộc đấu tranh bền bỉ với thiên nhiên khắc nghiệt để đảm bảo cuộc sống, thực tế gay gắt ấy tạo cho con người ở nơi đây sự cần cù, bền bỉ.
 
Sự phân chia quyền lực trong hàng chục thế kỷ của các shogun, tinh thần võ sĩ đạo thể hiện như một lý tưởng, một lối sống đã mài sắc ý chí chiến đấu của nhiều lớp thanh niên. Giáo lý của đạo võ sĩ có tám đức tính căn bản nhất mà người võ sĩ phải rèn luyện:
 
Đức ngay thẳng: giúp cho con người quyết định công việc một cách nhanh chóng, thẳng thắn, hợp với lẽ phải, không trái với lương tâm.
 
Đức dũng cảm: nếu chỉ là dám xông vào nơi nguy hiểm, ác liệt nhất của trận chiến và hy sinh thân mình, đó là nhiệm vụ của con nhà võ. Còn thực chất của đức dũng cảm là biết sống khi cần phải sống, biết chết khi nào cần thiết. Thấy việc nghĩa không làm, không phải là dũng cảm. Đức tính này phải được rèn luyện từ nhỏ. Con trai của người võ sĩ cần được luyện tập, chịu đói khát, khổ sở để khôn lớn, xông pha vào cuộc đời để khỏi bỡ ngỡ. Luyện tập được tính dũng cảm, bình tĩnh thì lúc gặp nguy nan vẫn sáng suốt.
 
Đức nhân từ: là tình thương rộng lượng, nhân ái, là đức tính cao cả nhất của người võ sĩ. Nếu như tính ngay thẳng, công bằng và dũng cảm là những đức tính nam nhi thì lòng nhân từ có cái mềm mại làm nên sức mạnh nữ giới. Nhưng cái nhân từ của người võ sĩ cũng không giống như đức nhân từ của người phụ nữ. Nếu ngay thẳng quá đáng thì trở thành thô bạo, nếu nhân từ quá mức sẽ trở nên nhu nhược. Vì vậy những người dũng cảm nhất là những người dịu dàng nhất và những người giàu tình thương chính là những người dám chiến đấu dũng cảm.
 
Đức lễ phép: có nghĩa là làm sao cho người khác thật tình vui vẻ trước những cử chỉ lịch sự của mình. Những cử chỉ lịch sự đó phải thể hiện một cách đứng đắn, thể hiện đức từ bi, bác ái tự đáy lòng mình mà ra.
 
Biết tự kiểm soát mình: là biết tự kiềm chế, làm cho mình có dũng khí khác thường, làm cho xã hội vui tươi, đời sống có ý vị hơn. Những ai không tự chủ được mình để cho những điều lo lắng bên trong bộc lộ ra ngoài thì không phải là hạng người có dũng khí. Không hề tỏ ra một dấu hiệu vui mừng hay giận dỗi, đó là câu nói cửa miệng của các võ sĩ.
 
Chân thực: nếu không chân thực thì lễ phép chỉ là giả tạo và trò cười. Người võ sĩ phải có đức tính chân thực cao hơn các tầng lớp xã hội khác. Lời nói của người võ sĩ có trọng lượng như một lời hứa chắc chắn không cần văn tự, bởi vì danh dự của người võ sĩ còn cao hơn giá trị của văn tự nhiều.
 
Trung thành: lòng trung thành rất quan trọng trong mối quan hệ chủ tớ ngày xưa. Theo đạo võ sĩ thì quyền lợi giữa gia đình và những người trong gia đình đều đồng nhất, không tách rời nhau. Song giữa gia đình và Thiên hoàng, nếu phải hy sinh một bên thì người võ sĩ không ngần ngại hy sinh gia đình của mình để phụng sự Thiên hoàng. Khi người võ sĩ không đồng ý kiến với chủ soái, việc làm trung thành của anh ta là tìm mọi cách để chủ soái thấy được sai lầm của mình. Người võ sĩ có thể kêu gọi lương tâm của chủ soái và bày tỏ lòng trung thành của mình bằng cả sự hy sinh những giọt máu cuối cùng.
 
Trọng danh dự: là ý thức mạnh mẽ, sâu sắc về giá trị và thanh danh của người võ sĩ. Khi người khác nói xấu mình, đừng trả thù họ mà nên suy nghĩ mình đã làm tròn bổn phận chưa. Phải biết hổ thẹn khi phạm đến điều gì tổn hại đến danh dự. Biết hổ thẹn là một trong những đức tính cần được giáo dục cho tuổi trẻ.
 
Xã hội Nhật Bản có ba tầng lớp chính là quý tộc, võ sĩ và nông dân, thợ thủ công. Có thể nói cách sống của tầng lớp võ sĩ có ảnh hưởng đến xã hội Nhật trong lối sống nhiều nhất. Tầng lớp võ sĩ chuộng sự đơn giản nhưng sâu lắng do ảnh hưởng của thiền, họ luôn tìm thấy cái đẹp trong sự đơn giản khiết bạch. Chính tinh thần thượng võ của giới võ sĩ đã ảnh hưởng đến đời sống nhân dân Nhật Bản, nên nhờ vậy mà nước Nhật điêu tàn sau chiến tranh trở nên một nước hùng mạnh nhất nhì thế giới, và cũng nhờ đó mà nước Nhật tiến bộ hơn hầu hết các nước châu Á khác trước chiến tranh thế giới thứ hai.
 
Nhật Bản là một dân tộc có ý thức về thế giới tinh thần, rèn luyện để tạo nên sức mạnh về tinh thần. Điều này thể hiện rõ ở lĩnh vực tôn giáo. Ở Nhật, nhiều tôn giáo cùng tồn tại: đạo Shinto (Thần đạo), đạo Phật, đạo Thiên chúa và nhiều tôn giáo khác. Trong đó, rất nhiều người Nhật theo cả hai tôn giáo: đạo Phật và Thần đạo. Thần đạo không phải là một tôn giáo theo nghĩa thông thường vì không có kinh bổn và đối tượng thờ cúng duy nhất. Thần đạo thờ các vị thần linh thiêng trong trời đất, thờ tổ tiên, thờ hồn người chết, đặc biệt là thờ các anh hùng dân tộc có công lao với đất nước. Do vậy, Thần đạo gắn liền với dân tộc.
 
Thần đạo và Phật giáo ở Nhật Bản ảnh hưởng nhiều đến việc hình thành tính cách con người nơi đây. Thần đạo mài sắc ý chí và đem lại sức mạnh tinh thần. Còn Phật giáo giúp vào sự rèn luyện thân thể. Thần đạo không ngừng thúc đẩy con người vượt qua mọi khó khăn để vươn lên trong cuộc sống thì đạo Phật lại giúp con người loại bỏ và hạn chế dục vọng để giữ gìn sự bền bỉ, kiên trì cho những mục đích của mình. Hai tôn giáo hòa quyện với nhau, tạo nên một con người Nhật luôn biết chủ động, tĩnh tâm, không vô tâm nhưng cũng không bị lôi cuốn vào vòng sắc dục.
 
Trong văn hóa, tôn giáo dễ được xem là những yếu tố thuộc phạm vi tâm linh không dễ đóng góp vào sự phát triển xã hội, nhưng chính Nhật Bản đã biết khai thác mặt tích cực của Thần đạo, Nho giáo và Phật giáo như một trong những động lực của sự phát triển xã hội. Các tôn giáo không đẩy tâm linh vào chỗ mê tín, dị đoan, mà ngược lại góp phần xác định sức mạnh và quyền lực của những giá trị tinh thần, của tâm linh để phục vụ cho cuộc sống.
 
Người Nhật như ấp ủ, nung nấu trong tâm linh, trong thế giới tinh thần những dự kiến, những tâm thức cho sáng tạo và hành động. Vì vậy, có nhiều người cho rằng, tâm hồn người Nhật có một cái gì đó thần bí, bí ẩn. Thực ra cái gọi là bí ẩn chỉ là sự kiên trì nỗ lực, nuôi dưỡng ý chí cho một mục đích đang và sẽ thực hiện, ở những thời điểm thích hợp, trước những yêu cầu của xã hội, của đất nước, sức mạnh ấy bùng lên, tỏa ra thành một lực lượng vật chất và tinh thần vĩ đại, và lịch sử đã chứng minh cho điều đó, chứng minh cho sự vươn lên thần kỳ của đất nước này.
 
Văn hóa Nhật Bản trong hàng ngàn năm đã tạo nên những nghi lễ, những tập quán trong văn hóa ứng xử, trang phục và cách ăn uống. Người Nhật quý khách nhưng không quá vồ vập tay bắt mặt mừng mà vẫn giữ nghi lễ trong cách cúi chào, trong lời mời mọc. Từ người dân trong đời sống hàng ngày đến vị nguyên thủ quốc gia trong cuộc họp lớn của nhà nước vẫn cúi mình đáp lễ như phong tục tập quán không thể khác đi của dân tộc.
 
Trà đạo là một nghệ thuật thưởng thức trà trong văn hóa Nhật Bản, được phát triển từ khoảng cuối TK XII. Chỉ một ly trà xanh nho nhỏ nhưng với người Nhật nó lại như một ốc đảo trong tâm hồn. Họ cho rằng thông qua trà đạo có thể phát hiện được giá trị tinh thần cần có của bản thân. Tinh thần của trà đạo được biết đến qua bốn chữ hòa, kính, thanh, tịch. Hòa là hòa bình, kính là tôn trọng người trên, yêu thương bè bạn, con cháu, thanh tức là thanh tịnh, thanh khiết, còn tịch là giới hạn mỹ học cao nhất của trà đạo: an nhàn.
 
Bên cạnh đó, y phục thời trang cũng là một nét sinh hoạt văn hóa của người Nhật, đặc biệt là đối với người con gái. Cách búi tóc của các cô gái Nhật rất cầu kỳ, mái tóc trước được dựng cao làm cho khuôn mặt có vẻ riêng, còn những món tóc được uốn lượn cầu kỳ là một nét thẩm mỹ đoan trang và duyên dáng. Trang phục truyền thống của người Nhật là kimono, một chiếc áo choàng được giữ cố định bằng một vành khăn rộng cuốn chặt vào người cùng với một số dây đai và dây buộc, ống tay áo dài và rộng thùng thình. Kimono của nam giới có vành khăn đơn giản và hẹp hơn. Kimono cho phụ nữ thường có các họa tiết hoa, lá và các biểu tượng thiên nhiên khác, phản ánh tình yêu thiên nhiên của người Nhật Bản. Ngày nay, kimono thường chỉ được sử dụng vào các dịp lễ tết. Phụ nữ Nhật mặc kimono phổ biến hơn nam giới, phái nam dùng kimono chủ yếu trong lễ cưới và buổi lễ trà đạo.
 
Những phong tục và nghi lễ của Nhật Bản đã góp phần tạo nên cuộc sống nền nếp, đảm bảo cho sự phát triển của xã hội, tạo nên một nền văn hóa Nhật mang đậm yếu tố nội sinh.
 
Giữ gìn và phát huy nền văn hóa giàu bản sắc dân tộc của người Nhật là một trong những nguyên nhân cơ bản giải thích tại sao Nhật Bản không diễn ra tình trạng cướp bóc hay tư lợi trong thảm họa động đất, sóng thần vừa qua, và có nhiều người Nhật đang trở thành đội quân cảm tử, bất chấp mạng sống của mình trong các nhà máy điện hạt nhân.
 
Trong quá trình phát triển, văn hóa Nhật không bảo thủ đóng kín mà nhạy cảm tiếp nhận những cái mới. Tuy nhiên, người Nhật luôn biết giữ gìn bản sắc dân tộc. Ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc và phương Tây đến văn hóa Nhật Bản là không nhỏ, nhưng người Nhật đã biết tiếp nhận ở một cách riêng, tạo nên nét độc đáo trong văn hóa Nhật.
 
2. Sự phong phú của một nền văn hóa đa dạng, đa chủng loại
 
Văn hóa Nhật Bản tiêu biểu cho một nền văn hóa cân đối, phát triển về nhiều mặt: văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại, văn hóa đô thị và văn hóa làng quê, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, văn hóa đa chủng loại của dân tộc.
 
Nhật Bản đã tìm được sự kết hợp hài hòa không phải ở mức liên kết mềm yếu giữa các yếu tố mà là sự liên kết giữa các đỉnh cao và trạng thái cực đoan của các yếu tố. Đó là sự kết hợp giữa núi cao, rừng sâu với biển xanh dịu dàng, giữa cơn bão tuyết với từng cánh hoa mong manh, giữa thanh kiếm sắc của các shogun với hoa anh đào mùa xuân... Trong đời sống xã hội, đó là sự kết hợp giữa Thần đạo đầy sức mạnh và linh thiêng với nét từ bi nhân ái của đạo Phật, giữa những yếu tố tâm linh vừa đè nặng vừa khơi dậy sức sống tinh thần, giàu bản sắc dân tộc với tính nhiều màu vẻ của thời đại.
 
Có thể nói không có dân tộc nào nhạy bén với cái mới bằng người Nhật. Họ không ngừng theo dõi những biến đổi của thế giới, đánh giá cân nhắc những ảnh hưởng của các trào lưu và xu hướng chính đang diễn ra đối với Nhật Bản. Khi xác định được trào lưu đang thắng thế, họ sẵn sàng chấp nhận, nghiên cứu và học hỏi để bắt kịp trào lưu đó, không để mất thời cơ.
 
Sự phong phú của một nền văn hóa đa dạng, đa chủng loại trong văn hóa Nhật Bản thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, tạo nên nhân tố nội sinh đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội Nhật Bản hiện đại.
 
Hiếu học là một truyền thống tốt đẹp của nhân dân Nhật Bản qua nhiều thời kỳ lịch sử. Cần cù học tập để thêm hiểu biết và vận dụng kiến thức phục vụ xã hội. Hệ thống giáo dục được xem như là chìa khóa làm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định về mặt chính trị. Việc đầu tư cho giáo dục có ý nghĩa to lớn đối với đất nước. Nhà nước, bằng mọi cách suốt hàng thế kỷ qua, đã tạo lập ra hệ thống có thể đào tạo lực lượng lao động có hiệu quả cao, đưa đất nước tiến tới hiện đại hóa. Ở cấp độ cá nhân, người Nhật ngày nay được đánh giá chủ yếu dựa vào học vấn chứ không phải địa vị gia đình, địa vị xã hội và thu nhập. Hơn nữa, sự theo đuổi học tập không phải để thỏa mãn nhu cầu tức thời nào đó mà đơn giản họ tin tưởng sâu sắc giáo dục phải là sự cố gắng suốt đời. Phần lớn người Nhật muốn hoàn thiện mình hơn và học hỏi là cách tốt nhất để đạt mục đích.
 
Chế độ xã hội Nhật Bản tạo cho người dân Nhật niềm tin rằng: số phận, cơ may của họ được định đoạt bởi sự chăm chỉ học hành và điều quan trọng là họ tin rằng ngay từ đầu họ đều có cơ hội bình đẳng như nhau. Do vậy, ý niệm về sự bình đẳng là một đặc điểm quan trọng của hệ thống giáo dục. Phần lớn người Nhật tin rằng họ đang sống trong một môi trường xã hội công bằng, trong đó nguồn gốc xuất thân, tài sản thừa kế không quan trọng bằng sự cố gắng bản thân.
 
Như vậy, nhờ giáo dục, nền văn hóa Nhật Bản phát triển trên cơ sở quần chúng nhân dân có trình độ văn hóa đồng đều, tạo điều kiện cho những giá trị nhân văn phát triển.
 
Học tập những thiết chế xã hội và đạo lý gia đình của Khổng tử, người Nhật có ý thức xây dựng đời sống gia đình, là tổ ấm làm nguôi quên những bất bình và bực dọc với xã hội. Gia đình là đơn vị mà con người gắn bó với nhau bằng huyết thống và quan hệ tình nghĩa. Chính vì vậy mà ở Nhật, việc giáo dục gia đình được đặc biệt chú ý. Gia đình trực tiếp giáo dục con cái thành người. Mở rộng ra, ở các xí nghiệp, nhà máy, người Nhật cũng có xu hướng vận dụng quan hệ gia đình để quản lý và người thợ nhiều khi gắn bó suốt đời với nhà máy như chính với gia đình mình. Điều này cũng lý giải tại sao người Nhật rất đoàn kết trong các tổ chức tập thể. Chính tất cả những yếu tố trên góp phần làm cho văn hóa Nhật Bản giàu tính nhân văn.
 
        Tóm lại, văn hóa Nhật Bản là một mô hình mẫu mực của văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại. Nền văn hóa đó đã tạo động lực cho sự phát triển chung của xã hội về vật chất cũng như tinh thần.
Tác giả bài viết: admin
Nguồn tin: nhatban.net.vn

Thứ Tư, 2 tháng 4, 2014

điều cần làm khi học tiếng nhật


Nếu bạn có một người bạn Nhật thì cũng là một việc tốt, nhưng bạn phải có khả năng giao tiếp ở một mức độ nào đó trước. Nếu không việc gặp gỡ sẽ trở nên một việc rất chán. Dù sao thì việc có bạn người Nhật cũng không phải là thứ giúp bạn giỏi tiếng Nhật vì không phải người Nhật nào cũng hiểu biết về ngôn ngữ. Ngay cả nhiều người trong chúng ta cũng không nắm rõ về tiếng Việt và không giải thích được cho người nước ngoài hiểu. Cá nhân tôi thì thấy là phần lớn mọi người không hiểu biết về ngôn ngữ, nên hầu như không giúp người khác học tiếng nước mình được. Để kiểm nghiệm điều này các bạn có thể thử dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Tôi có thể cá cược là bạn sẽ khá mệt mà người kia không tiến bộ mấy.

Giỏi giao tiếp không đồng nghĩa với giỏi tiếng Nhật

Lý do: Giao tiếp tiếng Nhật đòi hỏi vốn từ vựng không lớn, chỉ cỡ 1000~2000 từ và chỉ một số mẫu câu đơn giản. Bạn chỉ cần có một vốn từ vựng nhỏ, và một số mẫu câu là có thể giao tiếp tốt. Tuy nhiên, kỹ năng quan trọng nhất vẫn là "đọc hiểu" và "viết". Nếu bạn muốn dùng tiếng Nhật để tìm công việc tốt, hay bạn muốn làm việc trực tiếp với Nhật Bản, bạn phải "đọc hiểu" và "viết" tốt. Điều này đòi hỏi bạn phải có sự hiểu biết về tiếng Nhật và ngôn ngữ, chứ không đòi hỏi bạn phải giao tiếp tốt.

Giao tiếp chỉ dùng trong các tình huống đơn giản hàng ngày. Hãy tưởng tượng bạn phải trình bày một vấn đề phức tạp về kinh doanh, kinh tế hay kỹ thuật? Lúc đó bạn sẽ thấy là sự hiểu biết tiếng Nhật quan trọng hơn việc nói chuyện trôi chảy.

Tôi luôn rơi vào cảnh học trước quên sau?

Việc này xảy ra khi bạn học những nội dung không hữu dụng (ít dùng) hoặc cách học không làm bạn cảm thấy thú vị. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của tôi việc quên là việc rất tốt. Đó là cơ chế của não để giúp chúng ta chỉ nhớ những thứ cần thiết và hữu dụng (thường là những thứ mà khi học chúng ta cảm thấy thú vị). Việc học theo cách không thú vị thì có rất nhiều. Bạn hãy so sánh hai cách sau.

Cách 1:度胸:dám, can đảm, có gan

Cách 2:度胸:dám, can đảm, có gan, ví dụ:お前は度胸のないやつだね!
Mày đúng là thằng nhát gan nhỉ!
度胸があるかい?
Mày có dám không?

Các bạn có thể thấy là cách 2 sẽ dễ nhớ hơn rất nhiều vì có nhiều thứ để giúp bạn nhớ hơn.

Hoặc là:
Cách 1:
: "đông", phía đông

Cách 2:: "đông", phía đông; gồm có (nhật, mặt trời) và (mộc, cây): mặt trời ló sau cái cây, tức là phía đông

Quy tắc để có thể nhớ: Bạn phải tạo ra một "câu chuyện" thú vị liên quan tới thứ bạn muốn nhớ. Câu chuyện đó có thể chỉ là bạn bịa ra. Tôi nhớ khá nhiều từ tiếng Nhật mặc dù nó không thông dụng, vì tôi bịa ra vô số các quy tắc để nhớ.
Ví dụ: hechima = "mướp" > hễ chị má (đến thì sẽ nấu mướp)

Các bạn có thể thấy nó thật ngớ ngẩn, nhưng đó là cách có thể áp dụng ở mọi nơi và cực kỳ hiệu quả: Từ học từ vựng, học chữ kanji đến học ngữ pháp. (Ví dụ bạn có thể nhớ chữ "trà" gồm có bộ "thảo" - cây cỏ, với hình cái quán trà ở dưới, hay gồm bộ thảo với chữ nhân - người uống trà và chữ "ho" katakana.)

Bạn chỉ không quên khi bạn thực sự hiểu biết về tiếng Nhật.

Làm sao để nghe và nói?

Chỉ có một cách là bạn phải nghe nhiều, bạn phải vượt qua một số giờ nghe nhất định trước khi có thể nắm được các quy luật để nghe hiểu. Làm sao để bạn nghe hiểu tiếng Việt? Chắc chắn là không phải bạn nghe rõ ràng từng từ vì mỗi người nói khác nhau, và nhiều người phát âm không chuẩn. Bạn nghe được vì bạn phán đoán được tình huống, nội dung. Bạn nghe vì bạn nhận ra được nhịp điệu câu mà người ta nói. Điều này cũng đúng với tiếng Nhật. Khi nghe quen thì thậm chí khi chỉ nghe một phần của câu là chúng ta đã có thể phán đoán được nội dung của nó. Khi gặp một người nói khó nghe, ban đầu chúng ta sẽ không nghe được gì, nhưng sau khi quen thì chúng ta nghe được rất tốt vì chúng ta có thể phán đoán được.

Nghe không phải là kỹ năng tai bạn bắt được mọi từ bạn nghe, mà nó là kỹ năng bạn bắt được một số âm thanh, nhịp điệu, phán đoán từ hoàn cảnh và chủ đề.

Và cách để luyện nghe là: Nghe nhiều và học cách phán đoán. Đừng nghe những nội dung mà bạn không thể phán đoán là nó đang nói về cái gì. Hãy nghe những nội dung có phát âm chuẩn, dễ hiểu và có thể phán đoán được.

Còn nói là kỹ năng mà bạn nên học sau kỹ năng nghe. Khi bạn nghe tốt thì việc nói tốt không còn là vấn đề khó.
CHÚC CÁC BẠN HỌC TẬP THẬT TỐT!
                                                                        nguồn: Trung Tâm Nhật Ngữ Sofl